Bài viết ngày:
31-10-2012 | 00:00
Ông Nguyễn Khắc Quýnh, người làng Nành, xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội.
Tôi
quen ông từ 1990. Lúc ấy ông vừa thôi vai trò Bí thư Đảng ủy xã để
tiếp nhận nhiệm vụ mới: Phó ban Quản lý di tích. Mười năm sau, ngày
1/1/2000, ông đã trao cho xã được trên nghìn trang bản thảo ghi chép
những giá trị văn hóa làng do ông hợp tác sưu tầm. Việc sưu tầm này cũng
tự ông nghĩ ra và hì hụi làm chỉ với mục đích “Làng có nhiều chuyện
hay lắm, không ghi lại, sau này con cháu nó quên”.
tranh vẽ Ông đồ Quýnh ở làng Nành
Tuổi
trẻ là lính. Ông bôn ba trên nhiều chiến trường, kể cả Tây Nguyên xa
xôi ông cũng từng đặt chân đến. Văn hóa thì ông bảo là “Mình phọt phẹt
học trong quân ngũ được một tí”. Vốn có chút chữ Nho từ bé, ông mua từ
điển về tự học thêm “cốt để đọc và dịch được văn bia”- ông bảo thế.
Ông
giao du rộng. Nghĩ về ông, tôi lại nhớ đến câu thơ của người xưa: “...
phú tại sơn lâm hữu khách tầm”, có nghĩa kẻ giàu có dù ở giữa rừng sâu
núi thẳm vẫn có người tìm đến. Quả đúng thế, nhà ông không bao giờ
vắng khách bởi ông là người giàu có vốn văn hóa dân gian làng, sẵn sàng
chia sẻ với tất cả những ai cần tìm hiểu. Không kể những sinh viên tìm
đến ông hỏi chuyện, mà những nhà nghiên cứu văn hóa như GS Tô Duy Hợp,
cố Th.S Cổ Thị Minh Tâm, GSTS Đặng Văn Lung, TS Đinh Khắc Tuân đều
được ông cung cấp khá nhiều tư liệu mà chẳng đòi hỏi gì kể cả một tí
tên. Ông bảo giữ làm gì, văn hóa làng mình, càng nhiều người biết càng
tốt.
Từ
sưu tầm dịch thuật ông tham gia luôn vào Hội khuyến học. Rồi ông đề
xuất với xã xin cho mở lớp Hán Nôm và dạy không công để có kiến thức sưu
tầm vốn cổ. Nhưng không ngờ, từ lớp học đầu với 20 học viên 1996, đến
khóa thứ 6, lớp học đông lên đến gần 50. Học trò đủ loại, từ con em
trong làng đến các nhà nghiên cứu văn hóa ở nơi khác trong vùng tìm đến,
rồi cả các nhà sư cũng xin đầu lớp. Một lớp học của hương sư một thời,
nhưng không phải để đi thi, học hết chữ thầy cũng không bằng cấp, học
chỉ cốt để thêm hiểu biết.
2.
Tôi không thể quên khi được dự những buổi bình văn tại Điếm Kiều vào
Chủ nhật đầu tháng, những vị túc Nho trong làng cùng là thầy dạy với ông
đã đọc thơ rồi mổ xẻ cái hay trong từng câu chữ, lối chiết tự Trung
Hoa cổ xưa để tìm ra hồn vía của bài thơ. Rồi còn lôi cả những bài dịch
của các tiền bối như Trần Trọng Kim để bàn chỗ hay bới chỗ dở, chỉ ra
chỗ nhầm lẫn để cùng bàn luận.
Những
buổi bình văn ấy đã nuôi trong lòng các học viên nỗi mê đắm thi pháp
cổ, kích thích lòng ham học của mỗi người. Đó là thứ giáo học pháp thực
tiễn mà không có trường sinh ngữ nào theo kịp. Chẳng thế mà sau 2 năm
học ở Điếm Kiều, có môn sinh đã đọc dịch được các văn bản để lại trong
các thư tịch cổ Hán Nôm.
Tôi
vẫn gọi đùa ông là người chép sử làng. Ông cười “biết đến đâu thì chép
đến đấy chứ sử siếc gì”. Ông hay nói về chữ “tâm”, luận về cách viết
của ta khác người Tàu thế nào. Chữ “tâm” ông viết rất đẹp, chân thành
mà khít khao như một trái tim đôn hậu. Đời ông yêu chữ “tâm”, mà ông
cũng theo được chữ.
3.
Đằng đẵng bao nhiêu năm dạy học mà không nhận một đồng bồi dưỡng. Ban
đầu học phí 8 buổi học trong tháng chỉ có hai ngàn đồng, chỉ đủ mua
chút giấy mực, nước nôi cho lớp. Cả ngàn trang bản thảo sưu tầm được
ông ghi chép trên những tờ văn bản in hỏng của Ủy ban xã hoặc blốc lịch
cũ xin được. Thế mà hoàn thành gần như trọn vẹn về những vết tích văn
hóa làng.
Cuốn
Chuyện cũ làng Nành in năm 2004 dày 350 trang được một Việt kiều Pháp
là người làng trợ giúp tiền in. Khi sách về, ông lễ mễ ôm lên giao toàn
bộ cho xã làm quà tặng, phần bán được ông đề nghị đưa nộp vào quỹ
khuyến học. Năm ấy cuốn sách được Hội Văn nghệ dân gian trao giải. Trên
ba triệu tiền thưởng ông cũng lại định nộp lên quỹ. Tôi phải giải
thích rằng, sách đã không có nhuận bút, đây là tiền thưởng cho công sưu
tầm của riêng ông do Hội tặng, phải giữ lấy. Cũng chẳng biết rồi ông
có nghe không.
Giữa
làng quê, bên cạnh nghiên bút là giá tư liệu đồ sộ ngổn ngang các
trang viết, các bút tích của bè bạn ông cất giữ nâng niu và đầy các dự
định công việc còn đang dang dở... giờ đây đã vắng bàn tay ông chăm
sóc. Ông ra đi năm 2007 ở tuổi 81, sau một cơn đau tim bột phát để lại
bộ bản thảo sưu tầm chưa kịp in về hoành phi câu đối văn bia đình chùa
miếu mạo của làng.
4. Không phải người nghiên cứu mà ông thành nhà phôn-cờ-lo (folklore).
Không một ngày qua sư phạm, thậm chí chẳng có bằng cấp gì, vậy mà ông thành người thầy. Chữ thầy ấy là do người làng tặng ông.
Vốn liếng quý nhất trong cuộc đời ông có một chữ “tâm”!